Monday, April 16, 2018

Quyền lợi khách hàng ra sao khi doanh nghiệp bảo hiểm phá sản?

Theo Luật kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm (BH) có trách nhiệm tuân thủ quy định, các văn bản hướng dẫn thi hành và pháp luật có liên quan trong suốt quá trình hoạt động.


      Quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Theo đó, doanh nghiệp BH phải luôn duy trì khả năng thanh toán theo quy định tại Điều 77 Luật Kinh doanh BH, đảm bảo vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định tại Điều 94, phải sử dụng một phần vốn điều lệ để ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam theo quy định tại Điều 95 Luật Kinh doanh BH, phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo quy định tại Điều 96 Luật Kinh doanh BH.

Đối với khách hàng, doanh nghiệp BH có nghĩa vụ giải thích cho bên mua BH về các điều kiện, điều khoản BH, quyền, nghĩa vụ của bên mua BH, trả tiền BH kịp thời khi xảy ra sự kiện bảo hiểm theo quy định tại Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Doanh nghiệp BH phải trích nộp Quỹ bảo vệ người được BH để bảo vệ quyền lợi của người được BH trong trường hợp doanh nghiệp BH phá sản hoặc mất khả năng thanh toán theo quy định tại Điều 97 Luật Kinh doanh BH và Khoản 11, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm .

Cụ thể, doanh nghiệp BH, chi nhánh nước ngoài (trừ doanh nghiệp tái BH) phải trích nộp Quỹ bảo vệ người được BH. Trường hợp doanh nghiệp BH bị phá sản, Quỹ bảo vệ người được BH được sử dụng kể từ thời điểm Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp BH bị phá sản quy định tại Điều 103 và Điều105 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Hạn mức chi trả tối đa của Quỹ bảo vệ người được BH là 90% mức trách nhiệm của doanh nghiệp BH nhân thọ, nhưng không quá 200 triệu đồng/người được bảo hiểm/hợp đồng, tùy từng trường hợp cụ thể theo quy định tại Điều 107 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Để nhận thực hiện thủ tục chi trả từ Quỹ BH, doanh nghiệp BH, chi nhánh nước ngoài có trách nhiệm gửi Bộ Tài chính 01 bộ hồ sơ bao gồm: Văn bản đề nghị sử dụng Quỹ theo mẫu do Bộ Tài chính quy định; Văn bản xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp BH đã được thực hiện xong (đối với trường hợp doanh nghiệp BH bị phá sản); Bảng thống kê danh sách người được BH và các hồ sơ yêu cầu trả tiền BH.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ Bộ Tài chính có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ yêu cầu chi trả tiền BH, giá trị hoàn lại; trả tiền bồi thường BH; hoàn phí BH của doanh nghiệp BH, chi nhánh nước ngoài để xác định chính xác số tiền chi trả; Xây dựng phương án chi trả tiền BH, giá trị hoàn lại; trả tiền bồi thường; Thông báo công khai việc chi trả cho người được BH.

Thứ nhất: Doanh nghiệp bảo hiểm phải có đủ khả năng tài chính để đáp ứng cam kết với người tham gia bảo hiểm. Cụ thể doanh nghiệp phải có số vốn điều lệ đã đóng không thấp hơn mức vốn pháp định do Chính phủ quy định và phải duy trì số vốn này trong suốt quá trình hoạt động.


Ngoài ra, doanh nghiệp bảo hiểm phải có nguồn vốn chủ sở hữu tương ứng với quy mô hoạt động để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của mình. Hơn nữa, sau khi thu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ đầy đủ để đáp ứng khả năng chi trả cho người tham gia bảo hiểm. Thế nên người mua bảo hiểm nhân thọ có thể yên tâm về khả năng tài chính của công ty bảo hiểm.

Thứ hai: Pháp luật quy định rõ danh mục đầu tư vốn và việc đầu tư vốn của doanh nghiệp phải được thực hiện an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểm.
Thứ ba: Doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu sự kiểm tra giám sát về nội dung và phạm vi hoạt động bao gồm quy tắc điều khoản, biểu phí bảo hiểm áp dụng, địa bàn triển khai, đối tượng khách hàng. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm muốn thay đổi nội dung, phạm vi hoạt động cũng phải được Bộ Tài chính chấp thuận.



Các công ty bảo hiểm nhân thọ phải hoạt động dựa trên Luật kinh doanh bảo hiểm

Thứ tư: Ngay cả khi doanh nghiệp bảo hiểm trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ, duy trì mức vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định do Chính phủ quy định, nhưng nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp không tương ứng với quy mô hoạt động theo mức do Chính phủ quy định, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bị đặt vào trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, Bộ Tài chính sẽ thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động theo Thông tư số 195/2014/TT-BTC có hiệu lực từ 1/2/2015.
Thứ năm: Ngoài các biện pháp trên, trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giải thể, phá sản, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chuyển giao toàn bộ các hợp đồng bảo hiểm đã ký cho doanh nghiệp bảo hiểm khác theo thỏa thuận hay theo chỉ định của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, kèm theo việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm là chuyển giao tài sản, các quyền và nghĩa vụ tài chính.
Thứ sáu: Người quản trị, điều hành của doanh nghiệp bảo hiểm phải có năng lực quản lý, nghiệp vụ chuyên môn về bảo hiểm.
Như vậy, các khách hàng đã, đang và sẽ mua bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm nhân thọ có thể hoàn toàn yên tâm về những quyền lợi của mình khi tham gia bảo hiểm.
Theo : Tin tài chính Việt Nam


Share this post
  • Share to Facebook
  • Share to Twitter
  • Share to Google+
  • Share to Stumble Upon
  • Share to Evernote
  • Share to Blogger
  • Share to Email
  • Share to Yahoo Messenger
  • More...

0 comments

:) :-) :)) =)) :( :-( :(( :d :-d @-) :p :o :>) (o) [-( :-? (p) :-s (m) 8-) :-t :-b b-( :-# =p~ :-$ (b) (f) x-) (k) (h) (c) cheer

 
© 2011 Giải đáp, tư vấn Bảo hiểm nhân thọ,bảo hiểm phi nhân thọ.
Designed by Blog Thiet Ke
Posts RSSComments RSS
Back to top