Công ty bảo hiểm gặp rủi ro, Ai sẽ bảo vệ quyền lợi Người tham gia bảo hiểm?
Trong mọi trường hợp công ty bảo hiểm gặp rủi ro như mất khả
năng thanh toán hay nguy cơ phá sản thì Người tham gia bảo hiểm nhân
thọ đều được bảo vệ bởi Quỹ Bảo vệ người được bảo hiểm.
Mọi hoạt động kinh doanh đều phải tuân theo Luật của Nhà
nước, và kinh doanh bảo hiểm nhân thọ cũng không ngoại lệ. Đặc biệt,
hiện nay đã có quy định rất nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm trong mọi trường hợp công ty bảo hiểm gặp rủi ro
về tài chính.
Mới đây nhất là Nghị Định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật kinh doanh bảo hiểm - có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm
2016.
Theo đó, Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, chi nhánh nước
ngoài phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh bảo hiểm.Và để được coi là có đủ khả năng thanh toán khi
đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và có biên khả năng
thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu.
Dự phòng nghiệp vụ đối với bảo hiểm nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải trích lập dự phòng
nghiệp vụ cho từng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tương ứng với trách nhiệm
của doanh nghiệp bảo hiểm như sau:
Dự phòng toán học: Được sử dụng để trả tiền bảo hiểm đối
với những trách nhiệm đã cam kếtkhi xảy ra sự kiện bảo hiểm;Dự phòng phí
chưa được hưởng: Được sử dụng để trả tiền bảo hiểm sẽ phát sinh trong
thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo;Dự
phòng bồi thường: Được sử dụng để trả tiền cho các sự kiện bảo hiểm đã
xảy ra chưa khiếu nại hoặc đã khiếu nại nhưng đến cuối năm tài chính
chưa được giải quyết;Dự phòng chia lãi: Được sử dụng để trả lãi mà doanh
nghiệp bảo hiểm đã thỏa thuận với bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo
hiểm;Dự phòng bảo đảm lãi suất cam kết: Được sử dụng để bảo đảm mức lãi
suất cam kết của doanh nghiệp đối với khách hàng theo thỏa thuận tại hợp
đồng bảo hiểm;Dự phòng bảo đảm cân đối: Được sử dụng để trả tiền bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm do có biến động lớn về tỷ lệ rủi ro,
lãi suất kỹ thuật.
Biên khả năng thanh toán tối thiểu như sau:
Đối với hợp đồng bảo hiểm liên kết đơn vị, bằng 1,5% dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro;Đối
với hợp đồng bảo hiểm liên kết chung và hợp đồng bảo hiểm hưu trí, bằng
4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi
ro;
Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khác:
Có thời hạn 05 năm trở xuống: Bằng 4% dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm cộng với 0,1% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro;Có thời hạn trên 05
năm: Bằng 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cộng với 0,3% số tiền bảo hiểm
chịu rủi ro.
Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán,
doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài phải chủ động thực hiện ngay
các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán đồng thời báo cáo Bộ Tài
chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng
thanh toán và phương án khôi phục khả năng thanh toán.
Ai sẽ bảo vệ quyền lợi Người tham gia bảo hiểm
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước
ngoài không tự khôi phục được khả năng thanh toán thì Bộ Tài chính có
quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài thực hiện khôi
phục khả năng thanh toán, gồm những biện pháp sau:
Bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu;Tái bảo hiểm; thu hẹp nội
dung, phạm vi và địa bàn hoạt động; đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt
động;Củng cố tổ chức bộ máy và thay đổi người quản trị, điều hành của
doanh nghiệp;Yêu cầu chuyển giao hợp đồng bảo hiểm;Các biện pháp khác.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước
ngoài không khôi phục được khả năng thanh toán theo yêu cầu của Bộ Tài
chính quy định thì bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Bộ Tài
chính hướng dẫn việc thành lập và cơ chế hoạt động của Ban Kiểm soát khả
năng thanh toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán
theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm.
Thêm vào đó, Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải trích nộp
Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm . Việc trích nộp được
thực hiện đến khi quy mô của Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm của doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ đạt 3% tổng tài sản.
Quỹ này để sử dụng trong các trường hợp doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán và đã áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh
toán nhưng vẫn không khắc phục được. Trong đó doanh nghiệp bảo hiểm,
chi nhánh nước ngoài được sử dụng Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm theo
quyết định của Bộ Tài chính về việc chấm dứt áp dụng các biện pháp khôi
phục khả năng thanh toán;
Hay trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản, Quỹ bảo
vệ người được bảo hiểm được sử dụng kể từ thời điểm Thẩm phán ra quyết
định tuyên bố doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản.
Theo Nghị định số 73/2016/NĐ-CP
0 comments